Trấn Trúc Nguyên ở nước Cao Dao là một thị trấn quy củ, không ganh đua với đời.
Dĩ nhiên, nếu thật sự không có gì đặc sắc thì nó sẽ chẳng bao giờ trở thành điểm dừng chân đầu tiên của hai huynh muội.
Trấn Trúc Nguyên nổi tiếng bởi việc sản xuất nhiều một loài thực vật tên là “tre gạo”.
Mặc dù trong tên tre gạo có một chữ “gạo”, nhưng thật ra nó là cây ăn quả, hình dạng không khác cây liễu là bao. Vào thời gian giao mùa xuân hạ, trên cành tre gạo mảnh mai rủ xuống, những chuỗi quả đỏ thẫm sẽ được kết thành, toả ra hương gạo thoang thoảng. Vì vậy, chúng được gọi là “tre gạo”.
Quả tre gạo chỉ có mùi rất nhẹ, nhưng một khi nấu chín, mùi hương trở nên ngọt ngào và nồng nàn kỳ lạ, khiến người ta chỉ cần ngửi một lần là suốt đời không quên.
Sau khi xác định quả tre gạo không độc, dân bản xứ mang quả đi nấu chín, phơi khô, mài thành phấn để bảo quản. Lúc làm bánh thì thêm một ít, bánh ra lò sẽ mang màu sắc trong veo đặc biệt, không nhớt không dính, làm thư thái lòng người.
Nhờ có tre gạo, trấn Trúc Nguyên được mệnh danh là nơi làm bánh mang hương vị ngọt ngào nhất Cao Dao. Hằng năm, cứ đến lúc giao mùa xuân hạ, đầu bếp phụ trách làm bánh trong cung đều sai người tới đây chọn mua bột tre gạo thượng hạng, các nhà quyền quý có điều kiện cũng rối rít theo chân. Cho dù trấn Trúc Nguyên xa xôi, hẻo lánh, nhưng vẫn thường có du khách nghe danh mà tới.
Tuy quả tre gạo được hoan nghênh như thế, nhưng không có hộ nào ở trấn Trúc Nguyên trồng tre gạo với quy mô lớn cả. Bởi vì không có giống, cũng không thể nhân giống bằng những phương pháp trồng trọt khác. Hàng trăm năm qua, người dân trấn Trúc Nguyên thử vô vàn phương pháp, song vẫn không tìm ra con đường nuôi trồng tre gạo.
May mắn là, không biết vì nguyên nhân gì mà ở mỗi vị trí một cây tre gạo chết đi luôn có một cây khác mọc lên, cứ duy trì số lượng như thế, không nhiều lên cũng chẳng ít đi. Cũng còn một vấn đề khiến người ta nghĩ mãi không thông nữa chính là tre gạo chỉ có thể sống trong trấn Trúc Nguyên, một khi dời đi sẽ chết khô ngay lập tức.
Vì vậy, người dân trấn Trúc Nguyên coi tre gạo là loài cây được ông trời ban cho.
**
Lúc đoàn người Thanh Vinh đến trấn Trúc Nguyên đã là chạng vạng tối, cũng là thời điểm náo nhiệt nhất trong ngày của trấn Trúc Nguyên.
Nhìn từ trên cao xuống, phố lớn hẻm nhỏ người đến kẻ đi, sạp đồ ăn, đồ chơi ven đường mời chào kéo khách, quán trà, quán rượu, lúc nào cũng có khách khứa ra vào. Đám trẻ nô đùa chạy nhảy về nhà, người lớn làm việc bên ngoài cả ngày cũng gánh nông cụ hoặc cần câu lục tục trở về từ ngoại ô con trấn.
A Thuý đã ngủ say trong lồng ngực vững vàng của Thanh Vinh từ lâu. Thanh Vinh củng cố thêm chú cách âm. Lúc đang chuẩn bị ôm A Thuý lên thuyền thì nàng động đậy, chầm chậm tỉnh giấc.
“Đến rồi ạ?” A Thuý lim dim đôi mắt ngái ngủ, hỏi.
“Ừ, đến rồi. Bay lên thuyền trước rồi ngủ tiếp, ngày mai bắt đầu được không?” Thanh Vinh vừa trả lời, vừa kéo cái tay đang dụi mắt của muội muội ra, sau đó lấy chiếc khăn ướt mềm mại đã chuẩn bị trước từ trong nhẫn không gian, lau mặt giúp nàng. Muội muội mình chạy từ điện Phù Không đến kết giới bên ngoài núi Phù Không đã mệt mỏi lắm rồi, phải để nàng nghỉ ngơi cho khoẻ mới được. Chơi thì chơi, nhưng không thể không quan tâm đến cơ thể.
A Thuý nghe, sự chú ý dồn hết vào hai chữ “đền rồi”. Tinh thần phấn chấn, cảm giác uể oải vì vừa mới ngủ dậy biến mất trong nháy mắt. Ngó đầu nhìn xuống dưới, quả thật con trấn nàng mong đợi từ lâu kém xa toà điện, đến cả thảm mây để trải cũng chẳng có nữa. Từ khi ra đời, muội muội cùng lắm là bước xuống bậc thang của điện Phù Không, vậy nên y chẳng qua… y chẳng qua chỉ là sợ nàng không quen mà thôi.
Quay về trong lồng ngực ca ca, biểu cảm của A Thuý không hề thay đổi. Nàng cọ quậy hai chân, thế là được ca ca ôm lên cao ngay tức khắc, để tầm mắt nàng không bị cản trở, có thể quan sát được khung cảnh xung quanh.
Trong túi linh sủng bên hông Linh Khuê ở phía sau hai người, Vân Khanh ngủ xong một giấc, tỉnh dậy nhô cái đầu ra. Sau khi chủ nhân thiếp đi trên đường, nó bị bắt từ cõi lòng thơm thảo của nàng đi, rồi bị nhét vào trong túi linh sủng một cách vô tình. Nhưng nó cũng chẳng dám phản kháng, vì ánh mắt lành lạnh của ai kia vẫn ở đó mà.
Vân Khanh thức giấc thấy chủ nhân ở đằng trước đã tỉnh, bèn vui sướng kêu “chít” một tiếng, bay nhào tới. Kết quả ở vị trí cách lưng Thanh Vinh ba tấc, nó bị tấm bình phong bảo vệ trong suốt bao xung quanh y bắn giội ngược ra ngoài. Vân Khanh va vào tường, biến thành một cái bánh chuột từ từ trượt xuống.
A Thuý nghe có tiếng động thì nghi ngờ nhìn về phía sau: “Vừa nãy là tiếng Vân Khanh ạ?”
“Hử?” Thanh Vinh nghi hoặc nhìn nàng.
A Thuý mở to hai mắt. Chắc là nàng nghe lầm, có khi đó chỉ là âm thanh của bước chân trên cầu thang gỗ mà thôi.
Tế Hiên đi phía sau mấy người chứng kiến toàn bộ diễn biến. Hắn nhìn Vân Khanh lẻ loi nằm đó, tốt bụng nhặt nó lên, bỏ vào bàn tay phải: “Sao tự nhiên lại nhào tới thế? Pháp y trên người Thanh Vinh thúc có phải trang sức đâu? Lần sau phải nhớ kỹ đó.”
Hắn đoán Thanh Vinh thúc đã kịp thời giải tán sức mạnh của pháp trận phòng vệ, nếu không có thể cái mạng của Vân Khanh đã chấm dứt tại đây. Chẳng qua hắn không nghĩ tới, một Vân Khanh không mang chút công kích nào làm sao có thể kích phát công năng phòng ngự của pháp y đây?
“Chít chít chít!” Thiên Hôi đứng trên tay trái của Tế Hiên thì không hề lưu tình cười nhạo Vân Khanh mấy tiếng.
Vân Khanh duỗi thẳng cái chân tê cóng, tránh Tế Hiên, hung tợn trợn mắt nhìn Thiên Hôi một cái.
Đoàn người lên tới lầu hai thì nhận ra trừ những sương phòng được ngăn cách bởi các vách thì còn có một cái quầy. Ngồi ở sau quầy là một nữ tử khoảng hai lăm, hai sáu khoác y phục đỏ tươi. Nàng một tay nâng tai, một tay giơ tẩu thuốc thon dài, thi thoảng rít một hơi.
Nghe có tiếng rèm hạt va chạm do ai đó vén lên, nàng dùng tư thế lười biếng xoay người, khi nhìn thấy đoàn người Thanh Vinh thì nhướng mày, híp mắt đầy quyến rũ: “Vị ca này quen mắt ghê ta.”
Lời này rõ ràng đang hướng về Linh Khuê.
Trừ A Thuý, những người còn lại đều tỏ ra rất dửng dưng.
A Thuý trợn tròn hai mắt, từ góc độ của nàng có thể nhìn thấy vài cảnh phía sau chiếc quầy. Nàng thấy, sau lưng nữ tử khoác hồng y lại mọc ra – ba cái đuôi mèo!
Ba cái đuôi mèo đen đen, dài dài lúc ẩn lúc hiện, trông cực biếng nhác!
A Thuý đầy kinh ngạc, việc này… Không phải đây là thị trấn của phàm nhân sao? Sao yêu quái có thể trắng trợn chiếm cứ chỗ này, không sợ bị thiêu hả?
Thật ra điều đặc biệt ở trấn Trúc Nguyên không chỉ có tre gạo.
Như đã đề cập trước đó, dãy núi Phù Không là được Thanh Vinh dời đến cạnh sông U – nơi dày linh khí nhất Thiên Tứ Giới. Sông U không chỉ đầy đủ nước và linh khí, mà còn là nơi ra đời của yêu tộc trên toàn thế giới, được tất cả yêu tộc tôn sùng là sông mẹ, cũng là khu dân cư lớn nhất của bọn chúng.
Mặc dù trấn Trúc Nguyên cách khu dân cư của yêu tộc ở sông U một khoảng sông rộng và một cánh rừng dài, nhưng lại là thị trấn con người cách yêu tộc gần nhất.
Vì vậy, trong trấn, ngoài những con người bình thường thì còn có rất nhiều yêu tộc trà trộn vào. Có yêu quái thích gió bụi nhân gian, có yêu quái du hành rèn luyện, cũng có yêu tinh vừa mở linh trí không lâu, vừa mới hoá hình hoặc chưa hoá hình được.
Nhờ nguyên tắc thỏ không ăn cỏ gần hang và pháp lệnh yêu tộc không được quấy rầy phàm nhân trong khu vực, mà từ bao đời nay loài người và yêu quái ở trấn Trúc Nguyên chung sống rất hoà bình. Dĩ nhiên, nói là chung sống hoà bình, chứ thật ra phần lớn con người không phát hiện sự tồn tại của yêu quái.
Mà những tu sĩ có thể nhìn thấy yêu quái cũng biết quy tắc của yêu tộc. Nếu yêu quái không hại người, lại trấn giữ cả trấn, vậy thì lúc đi qua nơi đây, các tu sĩ sẽ mắt nhắm mắt mở cho qua.
Song A Thuý có thể nhìn thấy không phải vì đạo hạnh nàng cao, mà là bởi trừ tu sĩ tu vi cao thâm và yêu tộc thì còn một loại người có thể nhìn thấy yêu quái, đó là trẻ con.
Ở trong con mắt thuần khiết của con trẻ, tất cả đều không thể che giấu.


